Nói đến thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, chưa nói đến di tích văn hóa Quốc Tử Giám, nơi đây được coi là biểu tượng văn hóa – lịch sử và là trường đại học đầu tiên của nước ta. Từ bao đời nay, di tích này được coi là biểu tượng của trí tuệ, là biểu tượng của tình cảm truyền thống của dân tộc.
Xuất phát từ giá trị vô cùng cao, Quốc Tử Giám đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là di tích quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Nơi đây luôn là sự lựa chọn lý tưởng của du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt trong dịp đầu xuân, du khách thập phương nồng hậu bày tỏ lòng thành kính đối với đức Khổng Tử ưu tú, thầy Fanan Zhu học đạo làm người, mong cuộc sống hòa thuận thuận hòa, con đường học vấn bình an trôi qua. Quần thể công trình Văn Miếu-Quốc Tử Giám được nghiên cứu qua sử sách đã biết, được bao bọc bởi tường gạch, được chia thành 5 tầng với các không gian xây dựng khác nhau, mỗi lớp được ngăn bằng 3 bức tường gạch. Từ ngoài vào có các cửa: Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành, Thái Học.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trung tâm giáo dục và đào tạo thời trung đại
Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ngay từ thời đầu, nơi đây không chỉ đơn giản là nơi thờ Khổng Tử, mà là nơi đào tạo những người sau này giữ trọng trách lãnh đạo đất nước. Năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ hai, triều vua Lý Thánh Tông, “mùa thu, tháng Tám, dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tranh Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến học ở đây”.
Ngay từ khi mới xây dựng Văn Miếu, vua Lý Thánh Tông, người đứng đầu nhà nước lúc bấy giờ, đã ấn định đây không chỉ là nơi thờ tự mà còn là nơi giáo dục, là trường học. Việc lập Văn Miếu 1070 và Quốc Tử Giám 1076, là những sự kiện quan trọng, đặt cơ sở ra đời nền giáo dục thi cử ở Việt Nam nói chung, giáo dục truyền thống hiếu học nói riêng.
Trong suốt tiến trình lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử Giám luôn được tu sửa và mở rộng. Năm 1236, Trần Thái Tông “cho Phạm Ứng Thần làm Thượng thư tri Quốc Tử Viện, đưa con em văn thần và tụng thần vào học”.
Giá trị lịch sử của di sản văn hóa Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Lịch sử lâu đời
Văn Miếu Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội), được xây dựng năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu với mục đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Quốc Tử Giám từ đó trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Như vậy Văn Miếu vừa là nơi tổ chức các kì thi của quốc gia thời xưa, cao nhất là kì thi tiến sĩ, vừa là nơi thờ tự Khổng Tử, các nhà Nho và các danh nhân có công trong nền giáo dục nước nhà.
Trải qua nhiều triều đại, từ thời nhà Trần, thời Hậu Lê, thời Lê rồi đến thời Nguyễn; sau nhiều lần tu tạo, đổi tên và di dời, cuối cùng Văn Miếu Quốc Tử Giám đã về với vị trí như ngày nay, minh chứng thời gian cho sự thành lập kinh thành Thăng Long, trở thành biểu tượng văn hóa của Việt Nam.
Khối kiến trúc cổ, độc, đẹp
Văn Miếu Quốc Tử Giám có thể nói nằm được ở vị trí đắc địa; bốn mặt đều là những con phố đông người. Cổng chính (phía Nam) là phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học; phía Tây là phố Tôn Đức Thắng và phía Đông là phố Văn Miếu. Tuy nằm cạnh chốn đông vui, sôi nổi như vậy; nhưng Văn Miếu vẫn không mất đi vẻ đẹp yên tĩnh trầm mặc vốn có. Tổng diện tích quần thể kiến trúc Văn Miếu khoảng 54.331 km2 gồm Hồ Văn; vườn Giám và nội tự – khu Văn Miếu Quốc Tử Giám được bao quanh bằng tường gạch vồ. Nội tự được chia làm 5 khu vực chính.
Khu thứ nhất
Từ cổng Văn Miếu đến cổng Đại Trung với 3 gian lợp ngói; 2 bên là cổng nhỏ có tên Thành Đức và Đạt Tài
Khu thứ hai
nổi bật với Khuê Văn Các. Đây là công trình kiến trúc vô cùng độc đáo; được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái, 4 mặt đều có cửa sổ tròn với con tiện tỏa ra 4 phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng trên mái lợp ngói ống. Hình ảnh Khuê Văn Các cũng đã trở thành một phần biểu tượng cho Hà Nội; biểu tượng cho nét văn hóa kiến trúc Việt.
Khu thứ ba
Là khu bia Tiến sĩ dựng từ năm 1484, ghi họ tên, quê quán của 1.307 vị Tiến sĩ của 82 khoa thi. Bia Tiến sĩ cũng là một trong những di tích nổi tiếng của Văn Miếu; được khắc trên loại đá màu xanh, kích thước không đều nhau, chạm khắc hoa văn tinh xảo.
Trên mỗi tấm bia lại khắc một bài văn chữ Hán; ca ngợi công ơn của các triều vua, lí do mở khoa thi, số lượng thí sinh thi; tên người có trách nhiệm với kì thi, họ tên, quê quán những học sĩ đỗ đạt… Bia được đặt trên lưng rùa tượng trưng cho Long, Ly, Quy, Phượng. Rùa sống lâu, có sức khỏe; nên việc đặt bia Tiến sĩ trên lưng rùa đá thể hiện sự tôn trọng hiền tài và trường tồn mãi mãi. Bia Tiến sĩ cùng lưng rùa đã trở thành công trình kiến trúc đẹp, nổi bật trong quần thể kiến trúc Văn Miếu.
Khu thứ tư
Là sân Đại bái, trước đây thờ bài vị của 72 học trò xuất sắc của Khổng tử; và Tu nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Khu cuối cùng là nhà Thái Học, vốn là Quốc Tử Giám xưa; trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Một điều để tạo cho Văn Miếu hai chữ “độc đáo”; đó là các công trình kiến trúc đều được làm bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hài. Những nguyên liệu đó phảng phất mùi của cổ xưa; mùi của vẻ đẹp cổ kính mà tôn nghiêm. Qua nhiều lần tu sửa dưới nhiều triều đại; nó mang những nét đặc trưng của kiến trúc nghệ thuật của thời Lê, thời Nguyễn.
Năm 2012, Văn Miếu Quốc Tử Giám đã được đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích Quốc gia đặc biệt. Hiện Văn Miếu Quốc Tử Giám mở cửa đón khách tham quan tất cả các ngày trong tuần; là một trong những điểm tham quan thu hút nhiều khách du lịch nhất trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Nguồn: Birdfest.org